Tâm lý là thuật ngữ chung để biểu thị cho hiện tượng
tâm lý. Trên cơ sở này, thuật ngữ tâm lý học được hiểu là “ học thuyết về linh
hồn” hay “ khoa học về tâm hồn”.
Tâm lý là 1 hiện tượng có thật và nó có thể nghiên cứu
được bằng nhiều phương pháp.
Những quan điểm khoa học đầu tiên về tâm lý đã xuất
hiện ở thời cổ đại ( Ấn Độ, TQ, Ai Cập, Babilon, Hy Lạp, Gruzia…) trong lòng của
triết học và chúng đối lập với các tín
điều của tôn giáo về tâm hồn . giải thích về sự hình thành và phát triển tâm lý
người ntn là tùy theo các quan niệm về triết học và tôn giáo khác nhau mà ngta
giải thích cũng khác nhau..
Học thuyết duy tâm thời đại quan niệm rằng tâm lý là
hiện tượng hoàn toàn phi vật chất, tâm lý là phần hồn mà tạo hóa đặt vào con
người ( cá nhân cụ thể) lúc nó bắt đầu
chào đời. và linh hồn, phần hồn là bất tử, đối lập vs cơ thể sống và là khởi thủy
của nhận thức, khi người nào đó chết đi thì có nghĩa là phần xác mất đi, lúc đó linh hồn lìa khỏi thể xác và tiếp tục cuộc sống quẩn quanh “ đâu đấy”
mà người sống không nhận thức được nó 1 cách tường minh.
Học thuyết duy vật thời cổ đại quan niệm rằng tâm lý
có nguồn gốc từ vật chất, nó được tạo ra từ nước , lửa, không khí và các nguyên
tử khác.
Các thầy thuốc cổ đại mà tiêu biểu là Hippocrate(
460-377 TCN) quan niệm rằng tâm lý của con người cụ thể nào đó do tỷ lệ bốn chất
long vs các thuộc tính khác nhau trong cơ thể họ quyết định và tạo ra. Học thuyết
khí chất của Hippocrate có thể được khái quát như sau: trong cơ thể con người
có 4 chất tiết ra vs những thuộc tính khác nhau:
Thứ nhất đó là “ Máu” ở trong tim màu đỏ có thuộc
tính nóng, nếu tỷ lệ pha trộn của máu trội hơn trong cơ thể người nào đó trội
hơn thì người đó sẽ năng động , hoạt bát
hơn.
Thứ 2, chất tiết ra ở trong gan màu vàng có thuộc
tính khô, nếu tỷ lệ pha trộn của chất này trội hơn thì người đó sẽ trở nên khô
khan, cứng nhắc và u sầu.
Thứ 3, chất tiết ra ở trong dạ dày màu đen có thuộc
tính ẩm ướt nếu tỷ lệ pha trộn của chất
này trội hơn thì người đó sẽ ướt át, đa cảm.
Thứ 4, đó là chất tiết ra trong não màu trắng có thuộc
tính lạnh, nếu tỷ lệ pha trộn của chất này trội hơn thì người đó sẽ có đặc tính
lạnh lung và điềm tĩnh.
Cha đẻ của khoa học tâm lý đó là Arixtot ( 384-322
TCN)- nhà tư tưởng lỗi lạc của thời cổ đại là người đầu tiên nghiên cứu tâm lý
con người 1 cách hệ thống. trong cuốn “ Bàn về tâm hồn” Arixtot cho rằng trong con người có 3 tầng
tâm lý:
+ tâm hồn dinh dưỡng
+ tâm hồn cảm thụ
+ tâm hồn suy nghĩ
Theo ông tâm hồn suy nghĩ chỉ có ở con người, tâm hồn
dinh dưỡng có ở cả thực vật còn tâm hồn cảm thụ có ở động vật bậc cao. Như vậy
quan niệm của Arixtot đã định hướng tâm lý ở phạm vi rộng.
Arixtot đã định nghĩa tâm lý “: cái vốn có tự nhiên
của thân thể có khả năng sống”. chẳng hạn như mắt là tồn tại sống trong thân thể
tự nhiên , nhìn là chức năng của mắt,
người nhìn là tâm hồn của mắt, không nhìn đc mắt giống hệt như người mắt đá, mắt
vẽ lên tranh. Khi nhìn thấy 1 cái gì đó rồi ngta có thể vui buồn hoặc dửng
dưng.. tâm lý chính là cái có liên quan chặt chẽ với sự nhìn, sự nghe, nếm, ngửi và sờ mó ( đụng chạm)
Theo dòng tâm lý học Mác- LêNin : Tâm lý con người
là sự phản ánh hiện thực khách quan của
não, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan là sự tiếp thu những kinh
nghiệm của lịch sử loài người biến thành cái riêng có của từng người, bản chất
con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
Tâm lý là chức năng của vỏ não , phản ánh hiện
thực khách quan vào não đến hệ thống các giác quan đến não, não hoạt động trên
cơ chế phản xạ đó là các hiện tượng tâm lý. “ chỉ có các hoạt động của não thì
tâm lý của con người mới phát triển”
Đăng nhận xét